Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn.
Kinh nguyệt thường kéo dài trung bình 4 ngày (trong phạm vi 2 - 7 ngày), với lượng máu mất trung bình là 40ml. Máu mất hơn 80ml trong một vòng kinh là không bình thường và hay gây thiếu máu. Chảy máu quá nhiều hay kèm theo máu cục có thể xảy ra với kinh nguyệt đều (rong kinh) hoặc kinh nguyệt không đều, (chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng). Khi mà khoảng cảch giữa hai lần chảy máu ngắn hơn 21 ngày thì vòng kinh có vẻ không phóng noãn. Chảy máu khi phóng noãn, một bệnh cảnh chảy máu thấm giọt giữa những vòng kinh đều là hoàn toàn bình thường. Chảy máu nặng hơn hoặc chảy máu không đều ngoài kỳ kinh cần được nghiên cứu.
Chảy máu tử cung do rối loạn cơ năng thường là do sự phát triển quá mức của niêm mạc tử cung dưới sự kích thích của progesteron: điều này xảy ra trong những vòng kinh không phóng noãn. Sự không phóng noãn kết hợp với nồng độ estrogen cao hay gặp ở thiếu nữ, những phụ nữ từ 30 tuổi đến 40 tuổi, ở những phụ nữ quá béo hoặc những phụ nữ có buồng trứng đa nang.
Việc sử dụng estrogen ngoại lai không có dùng thêm progestin là một nguyên nhân hay gặp. Estrogen sử dụng kểo dài liều thấp không có progestin đối kháng có thể gây chảy máu thấm giọt. Estrogen dùng liều cao có thể gây chảy máu nhiều hay chảy máu kéo dài.
Các triệu trứng và dấu hiệu
Chẩn đoán các rối loạn gây chảy máu thường dựa vào những yếu tố sau:
Mô tả cẩn thận thời gian chảy máu và lượng máu chảy, mối liên quan với đau và với kỳ hành kinh cuối cùng. Sẽ không chính xác nếu đánh giá lượng máu mất qua việc đếm số lượng khố vì lẽ rằng khố hay vải dù do cùng một hãng sản xuất cũng có thể có cách thẩm khác nhau. Sự có mặt của các cục máu và mức độ khó chịu do chảy mảu gây ra có lẽ là những chỉ báo có ích hơn.
Hỏi tiền sử về những bệnh có liên quan.
Hỏi tiền sử về tất cả các thuốc mà người bệnh dùng trong tháng trước vì rằng những thuốc này có thể gây ức chế phóng noãn hoặc kích thích niêm mạc tử cung, cần phải đánh giá.
Khám tiểu khung để tìm xem có thai không, có u xơ tử cung không, các khối u ở phần phụ, viêm nhiễm hoặc lạc nội mạc tử cung
Những phương pháp chẩn đoán phụ khoa thông thương
Soi ở tử cung
Qua phóng đại 5 - 50 lần có thể nhận thấy được biểu mô của cổ từ cung, âm đạo, âm hộ để dánh giá những diện bất thường đòi hỏi phải sinh thiết. Dùng để xác định những cục nổi ở cơ quan sinh dục của nam giới cũng như của nữ giới. Đây là một phương pháp hỗ trợ.
Nong và nạo tử cung
Nong cổ tử cung và nạo toàn bộ niêm mạc từ cung bằng một thìa kim loại hoặc một ống nhỏ và thường dược dùng kìm để lấy ra những polip niêm mạc tử cung để chẩn đoán bệnh của niêm mạc tủ cung và để làm ngừng chảu máu nặng. Thường gây tê tại chỗ.
Sinh thiết niêm mạc tử cung
Lấy ra từ một hoặc nhiều nơi của niêm mạc từ cung bằng thìa hoặc dụng cụ nhỏ mà không cần nong cổ tử cung. Phương pháp này thiếu chính xác hơn phương pháp nong và nạo tữ cung. Gây tê tại chỗ.
Nạo ống cổ tử cung
Lấy biểu mô trong ống cổ tử cung bằng một thìa nhỏ để chẩn doán những loạn sản của cổ tử cung và ung thư. Gây tê tại chỗ.
Soi buồng tử cung
Kiểm tra bằng mắt buồng tử cung với sợi dây quang học nội soi được đưa qua lỗ cổ tử cung vào buồng tử cung. Sinh thiết, cắt bỏ khối u xơ và các thủ thuật khác có thể thực hiện được. Gây tê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân làm tại phòng mổ.
Chụp buồng tử cung
Bơm chất cản quang qua cố từ cung vào buồng tữ cung để quan sát buồng từ cung và vòi trứng, chủ yếu dùng trong chẩn đoán vô sinh.
Soi ổ bụng
Quan sát ổ bụng và lòng tiểu khung với sợi dây quang học nội soi ống mềm đưa qua vết rạch dưới rốn. Cho phép chẩn đoán, tiến hành triệt sản vòi trứng và điều trị nhiều trường hợp bệnh trước đây phải mổ bung. Gây mê toàn thân.