Chẩn đoán nhanh chóng và điều trị sớm thương tổn chèn ép tủy là quan trọng. Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần.
Ung thư là một bệnh mạn tính, nhưng các tình huống cấp cứu có thể xuất hiện như là một biến chứng của xâm lấn tại chỗ (chèn ép tủy, hội chứng tĩnh mạch chủ trên, tràn dịch ác tính v.v) hoặc được sinh ra do các tác động toàn thân (tăng calci máu, nhiễm trùng cơ hội, tăng đông máu, tăng urê máu v.v). Những biến chứng này có thể là biểu hiện của ung thư và cần thiết phải ghi nhận và tìm hiểu kỹ lưỡng.
Chèn ép tủy sống bởi u được thể hiện bằng đau lưng, mệt mỏi tăng dần, và mất cảm giác (thông thường ở chi dưới). Hiếm gặp hơn, bệnh ở tủy sống biểu hiện là đau ngực và đau bụng hoặc có dấu hiệu chèn ép thần kinh do u ở màng cứng. Rối loạn chức năng bàng quang và ruột là những dấu hiệu muộn. Chèn ép tủy sống khó thở xuất hiện như biến chứng của u đặc di căn, của u lympho, của bệnh đa u tủy. Đau lưng do tổn thương cột sống xuát hiện trong 80% các trường hợp có thể tăng khi nằm xuống, mang nặng, hắt hơi, hoặc ho vì đau lưng có trước các dấu hiệu thần kinh, nên cần thăm dò kỹ lưỡng trong các bệnh nhân ung thư.
Chẩn đoán nhanh chóng và điều trị sớm thương tổn chèn ép tủy là quan trọng. Các thương tổn thần kinh lúc chẩn đoán đa phần là không hồi phục, mặc dù điều trị sớm các triệu chứng thần kinh có thể đạt được hồi phục dần. Thương tổn thần kinh thường tiến triển về ban đêm, bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận. Điều trị các thương tổn còn sớm có thể tránh được mặc cảm tai hại. Các bệnh nhân liệt có thể không phục hồi về chức năng, nhưng có thể đỡ đau và hạn chế được tiến triển đau đớn sau này. Hơn nữa, bệnh nhân có thể đáp ứng với điều trị toàn thân tùy thuộc vào bản chất của ung thư.
Chẩn đoán chèn ểp tủy sống theo truyền thống được tiến hành bằng chụp cắt lớp CT và chụp tủy. Chụp cộng hưởng từ MRI hiện nay là một phương pháp nhạy cảm thay thế cho chụp tủy. Có thể thấy rõ chi tiết vùng nghi ngờ cũng như hình ảnh bên của toàn bộ tủy sống cũng như ống sống. Xét nghiệm này rất có ý nghĩa để phát hiện và điều trị bệnh đa u tủy. Chụp X quang xương và chụp cắt lớp xương cũng có ích để phát hiện di căn cột sống nhưng không giúp đánh giá được di căn tủy sống.
Điều trị cấp cứu
Điều trị tia phóng xạ vào vùng chèn ép tủy sống và hai đốt sống trên và dưới tổn thương là điều trị chọn lựa. Dùng liều cao glucocorticoid (thường là Dexamethason, 10 - 100mg tiêm tĩnh mạch) là cơ sở cấp cứu ngay khi chẩn đoán được nghi ngờ hoặc được khẳng định. Dùng liều thấp (4 - 6 mg 6 giờ 1 lần tiêm tĩnh mạch hoặc uống) được duy trì trong quá trình điều trị tia phóng xạ và cho tới khi kết thúc điều trị.
Phẫu thuật cấp cứu được chỉ định cho chèn ép tủy khi (1) không phải u ác tính, có thể (2) cho các bệnh nhân đã được chiếu tia tối đa vào vùng tủy sống bị ung thư, và (3) cho bệnh nhân phát triển các liệt thần kinh dần dần trong quá trình tia xạ. Điều trị hóa chất có ích khi bị u lympho, đa u tủy phối hợp cùng hoặc sau khi hoàn thành xạ trị.