Ảnh hưởng của rượu trên thai nhi ( Phần 2)

Nghiên cứu ở loài vật mang thai cho thấy tác hại của rượu trong giai đoạn đầu tiên của thai kỳ là rượu đưa tới khuyết tật các cơ quan trong cơ thể; giai đoạn thứ hai và thứ ba đưa đến hành vi bất thường. Nhiều quan sát cho thấy ngưng uống vào giai đoạn ba của thai kỳ cũng giảm bớt một phần ảnh hưởng xấu. Một vài lần uống say khướt (binge) rồi ngưng cũng vẫn nguy hại dù sau đó ngưng uống hoàn toàn.
Uống bao nhiêu là có hại?
Câu hỏi đầu tiên được nêu ra là: có một liều lượng rượu nào có thể xem là an toàn cho người mẹ nghiện rượu không?
Một số ý kiến cho là đã có nhiều thế hệ phụ nữ mang thai uống rượu mà tác hại đâu có xảy ra ở tất cả mọi trường hợp?
Mặt khác, ngay cả các nhà nghiên cứu hiện nay cũng cho rằng cơ thể mỗi người mỗi khác nên rất khó xác định một liều lượng có thể xem là “đủ để gây hại cho thai nhi”. Và như thế thì cũng không thể xác định được một “liều lượng an toàn”.
Số lượng uống nhiều ít được dư luận trong ngoài y giới lưu ý và trở thành một đề tài về sức khỏe công cộng. Phụ nữ được hướng dẫn, giải thích không nên uống rượu khi có thai. Các phương tiện truyền thông đại chúng cũng nhắc nhở các bà mẹ có thai nên tránh rượu để khỏi gây rủi ro cho con mình.
Trong giai đoạn đầu tiên, khi vấn đề vừa được nêu ra, chưa có nhiều kết quả nghiên cứu cụ thể, nên một số thầy thuốc cho là nếu uống dưới 30 ml một ngày thì không sao.
Trong một quyển sách về sản phụ khoa xuất bản năm 1977, tác giả Benson cũng cho là “ đôi khi uống rượu, chẳng hạn một ly nhỏ rượu trái cây trước bữa ăn tối, thì không có ảnh hưởng gì cho thai nhi”. Nhưng sau đó vì ảnh hưởng của rượu ngày càng được làm rõ, nên sách này khi tái bản năm 1983 đã sửa lại là “ khi có thai nên tránh uống rượu là điều tốt nhất, vì uống rượu trong lúc mang thai sẽ có thể sinh ra con dị dạng, chậm trí”.
Năm 1977, hai tổ chức quan trọng về bệnh nghiện rượu tại Hoa Kỳ là National Institute of Alcohol Abused and Alcoholism và National Council on Alcoholism ra một thông cáo chung tuyên bố rằng “phụ nữ có thai mà mỗi ngày uống từ 120ml trở lên thì có nhiều nguy cơ sanh con khuyết tật”. Cẩn thận hơn nữa, hai cơ quan xác nhận thêm “ ngay cả từ 60 cho tới 90ml rượu cũng có thể gây ra tổn thương cho thai nhi”.
Tạp san của Hội Y Sĩ Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1984 có đăng một nhận định đại ý là “dù chỉ uống lượng rượu vừa phải cũng gây ra chậm tăng trưởng cho thai nhi”.
Càng ngày càng có nhiều chứng minh chắc chắn là tác hại của rượu lên thai nhi tùy thuộc vào số lượng: uống nhiều, hại nhiều. Vì thế, nhiều người dễ dàng đi đến kết luận là uống ít, hại ít. Nhưng ý kiến chung của các giới chức y tế vẫn là: khi người mẹ mang thai thì không có một liều lượng nào có thể xem là an toàn cho thai nhi cả. Đặc biệt chỉ cần có một đôi lần uống say mềm cũng đã quá đủ để gây hại nghiêm trọng cho thai nhi.
Vấn đề FAS đặt ra đúng vào lúc tỷ lệ phụ nữ, nhất là thiếu nữ, dùng rượu tăng cao. Trong khi đó kỹ nghệ sản xuất rượu lại phát triển rất mạnh và đóng góp khá cao cho ngân sách của nhiều quốc gia. Rượu lại rất phổ biến, được bán hợp pháp, được quảng cáo rộng rãi, được nhiều nguời uống.
Rượu cũng gây nhiều tác hại cho chính bản thân những người mẹ nghiện rượu trong thời gian mang thai. Họ dễ bị băng huyết, nhau tách sớm, sẩy thai.
 
Dấu hiệu của khuyết tật.
Ngay khi mới sanh, đứa bé có dấu hiệu như của một người nghiện nhớ rượu: rất dễ bị kích thích, mình run rẩy, cơ thịt co giật như lên kinh phong.
Hai thay đổi chính sau đây đã được mô tả :
1-Thay đổi hình dáng.
Đầu là nơi có những thay đổi rõ ràng, đặc biệt nhất. Đầu nhỏ, tóc mọc sau gáy, trán nhô, mặt dẹp, gò má thấp, tai thấp, mi mắt sụp, mắt nhỏ, mũi ngắn, sống mũi dẹp, môi trên mỏng đôi khi chẻ, răng nhỏ, cằm lẹm, khoảng cách giữa mũi và miệng rộng.
Lồng ngực nhô ra hoặc xẹp vào, cột sống nghiêng vẹo.
Khớp xương và tứ chi bất bình thường: ngón tay út ngắn, co quắp, dấu ngón tay mờ, cơ thịt nhão, khớp xương lỏng lẻo; cử động xương hông giới hạn.
Ngũ quan cũng bị ảnh hưởng: về thị giác thì có lé mắt (strabismus), rung rật nhãn cầu (nystagmus), cận thị cả hai mắt. Dây thần kinh mắt bị giảm sản.
Một phần ba nạn nhân bị điếc trong khi đó thì nhiều em lại có nhạy thính giác bất thường. Hầu hết dễ dàng bị bệnh viêm tai giữa.
Tim thận có dị tật. Vách nhĩ-thất thủng rách. Thận giảm sản, chia đôi; bàng quang có túi (bladder diverticula), ngọc hành nằm trong bụng.
Các em đều chậm lớn, biếng ăn, nhẹ kí, ngủ nghỉ bất thường. Đa số có thể tăng trưởng được nhưng rất chậm.
2-Chậm phát triển trí tuệ
Hầu hết các em có chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient) thấp, khoảng 68, so với chỉ số bình thường là 100. Khả năng đọc hiểu và khả năng toán học phát triển không đồng đều và cả hai đều chậm chạp.
Về phương diện giáo dục, mặc dù vẫn “ có thể dậy dỗ được”, nhưng 90% các em kém khả năng tiếp thu và diễn tả ngôn ngữ, 95% không học biết được cách sử dụng tiền.
Các em có tiếng nói lơ lớ, âm thanh nằm lại trong cuống họng, đều đều, cứng nhắc, phát âm không rõ dù ý nghĩa và nội dung bình thường.
Thời gian phản ứng chậm, kém tập trung; không phân biệt được mầu sắc; khó nhớ tên người và sự vật; kém phán xét, không biết hậu quả hành động của mình; không ý thức được tương lai; không phân biệt khen chê, ơn nghĩa; kém phối hợp các hành động.
Ngay từ khi còn bé, các em đã ngang ngược, hay đòi hỏi và gây bực mình cho người khác. Lớn lên các em thích cô đơn, bất cần đời, không chơi với ai, không nghe ai, lười biếng, thụ động, buồn vô cớ, ăn cắp vặt, xâm phạm tình dục, lạm dụng rượu.
Một hội nghị vào năm 1980 của các chuyên gia về Hội Chứng Alcohol Fetal Syndrome đã đề nghị là để định bệnh, phải có một trong các dấu hiệu của ba loại sau đây:
1-Chậm tăng trưởng trước và sau khi sanh với thiếu cân, thiếu chiều cao, đầu nhỏ so với tuổi
2-Rối loạn về hệ thần kinh trung ương với các dấu hiệu bất bình thường các chức năng thần kinh, chậm phát triển về hành vi có hoặc có hư hao trí tuệ
3-Có ít nhất hai dấu hiệu bất thường về đầu- mặt như đầu nhỏ, mắt ti hí, mép trên rộng, môi trên mỏng, mũi ngắn, gò má dẹp.
Các tổn thương này đều không đảo ngược (non reversible).
Hàng năm, tại Hoa Kỳ có 4000 trẻ em sinh ra với hội chứng này.

Bài viết khác